Nếu cho rằng công chứng viên được đào tạo bài bản và có yêu cầu khắt khe về chuyên môn nên công chứng viên phải bảo đảm chắc chắn 100% rằng mọi giấy tờ không phải là giả mạo, đồng thời phải chịu trách nhiệm về việc đó thì đó là một quan điểm quy chụp, thiếu khách quan và thiếu công bằng

Một con tin bị sát hại trước sự nỗ lực của cảnh sát. Một bệnh nhân ra đi trong sự bất lực của bác sỹ. Các cầu thủ vẫn phạm lỗi, gây chấn thương cho nhau trước mặt trọng tài. Cảnh sát, bác sỹ hay trọng tài đều được ví như những người bảo vệ – bảo vệ trật tự, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ luật chơi. Bảo vệ người khác là trách nhiệm chính, là nghĩa vụ của họ, do vậy, khi có những rủi ro ngoài ý muốn, có một hậu quả xảy ra thì tâm lý chung của mọi người là quy trách nhiệm cho họ, đó cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng, không thể vì con tin bị sát hại mà ngay lập tức bắt cảnh sát chịu trách nhiệm, không thể vì bệnh nhân không qua khỏi mà quy lỗi cho bác sỹ, càng không thể bắt trọng tài chịu trách nhiệm khi cầu thủ bị đối phương chơi xấu.

Một số ý kiến cho rằng, tôi trả tiền cho anh để anh bảo vệ người khác mà anh không bảo vệ được thì anh phải có trách nhiệm. Tuy nhiên, đó là những ý kiến mang tính chất chủ quan và vô cảm. Mọi thứ cần được xem xét một cách thấu đáo, có lý, có tình và theo lẽ công bằng, bởi vì không phải lúc nào tiền cũng giải quyết được mọi việc, và không phải cứ muốn là được, cứ ước là có. Giống như nhiều sự vật, hiện tượng khác trong đời sống, giống như số tiền mà mọi người chi ra để sử dụng dịch vụ, sự bảo vệ có giới hạn của nó.

Công chứng là một nghề bị cấm quảng cáo, vậy nên việc truyền thông cho dịch vụ này cũng phần nào bị hạn chế. Hầu hết các thông tin về công chứng trên không gian mạng đều nói về mặt trái của công chứng, chẳng mấy khi có thông tin tích cực. Bình luận về công chứng hầu hết là ý kiến của các luật sư, ý kiến của các nhà báo và của các bên bị hại, thế nên cũng dễ hiểu khi những ý kiến đó mang tính chủ quan, quy chụp và thiếu công bằng. Hàng loạt bài báo, bài phỏng vấn trên truyền hình khi bình luận về trách nhiệm của công chứng viên trong trường hợp để lọt giấy tờ giả đều mặc định lái dư luận theo hướng: giao dịch đã công chứng, cứ có thiệt hại xảy ra là công chứng viên phải liên đới trách nhiệm bồi thường. Điều luật được viện dẫn phổ biến nhất là Điều 364 BLDS và Điều 2, Điều 3, Điều 8, Điều 9 Luật Công chứng với lập luận rằng:

  • Công chứng viên mặc nhiên có lỗi vô ý khi có thiệt hại xảy ra;
  • Công chứng viên phải bảo đảm tính xác thực, hợp pháp của giao dịch;
  • Công chứng viên là người được nhà nước ủy nhiệm để cung cấp dịch vụ công, bảo đảm an toàn cho các bên tham gia giao dịch dân sự, do vậy, công chứng viên phải có nghĩa vụ đảm bảo an toàn cho giao dịch đó;
  • Công chứng viên được đào tạo bài bản với tiêu chuẩn rất khắt khe để làm công việc của mình, công chứng viên có nghĩa vụ phải biết và phải chịu trách nhiệm về công việc của mình.

Tuy nhiên, một nửa cái bánh mì có thể là cái bánh mì chứ một nửa sự thật thì không thể là sự thật. Tôi xin nói rõ về 4 luận điểm trên để thấy sự thật đã bị thêm bớt như thế nào khi một số luật sư quy kết trách nhiệm cho công chứng viên.

Thứ nhất, về quan điểm cho rằng Công chứng viên mặc nhiên có lỗi vô ý khi có thiệt hại xảy ra:

Lỗi là một căn cứ quan trọng để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt  hại của công chứng viên. Điều 364 BLDS quy định: “Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Khi xem xét thực tế hoạt động của công chứng viên, không thể mặc định rằng công chứng viên phải biết hoặc có thể biết trước được hành vi chứng nhận của mình có khả năng gây thiệt hại, bởi vì không có một chế định pháp luật nào quy định một chức danh tư pháp cứ thực hiện nhiệm vụ của mình là có lỗi cả. Việc có lỗi phải thực sự xuất phát từ ý chí chủ quan, mang tính cá nhân, vượt quá hoặc đi ra khỏi những nguyên tắc nghề nghiệp, quy trình làm việc đã được quy định cho chức danh hoặc nghề nghiệp đó. Như vậy, khi có thiệt hại xảy ra do hoạt động công chứng không phát hiện được giấy tờ giả mạo, việc xem xét lỗi của công chứng viên cần phải có những tiêu chí, thước đo cụ thể chứ không thể khẳng định bừa bãi.

Thứ hai, về quan điểm Công chứng viên phải bảo đảm tính xác thực, hợp pháp của giao dịch:

Để biết được sự bảo đảm này như thế nào, chúng ta cần xem xét quy trình công chứng của công chứng viên.

Các quy định của Luật Công chứng cho thấy, toàn bộ quy trình tác nghiệp của công chứng viên chỉ dựa trên cảm quan và giác quan thông thường như nghe, nhìn, giao tiếp với công dân. Đối với giấy tờ, hồ sơ mà công dân cung cấp cũng vậy: Khoản 8 Điều 40 và Khoản 3 Điều 41 của Luật Công chứng quy định: “Công chứng viên yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình bản chính của các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này để đối chiếu trước khi ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch.

Xuất trình bản chính giấy tờ để công chứng viên kiểm tra là một thủ tục bắt buộc, nhưng việc kiểm tra giấy tờ như thế nào thì không có quy định cụ thể. Thực tế hoạt động công chứng trên thế giới và cả ở Việt Nam trong lịch sử cho thấy việc đối chiếu giấy tờ bản chính của công chứng viên chỉ thực hiện bằng các giác quan thông thường. Hiện nay, công chứng viên có thêm công cụ hỗ trợ là cơ sở dữ liệu, tuy nhiên cơ sở dữ liệu đang được áp dụng một cách rất hạn chế.

Có ý kiến cho rằng công chứng viên buộc phải khẳng định tính xác thực của giấy tờ, văn bản trước khi công chứng, nếu không chắc chắn thì có thể xác minh. Ta cùng xem xét quy định của Luật Công chứng về việc xác minh như thế nào:

Khoản 5, Điều 40 Luật Công chứng quy định: “Trong trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc đối tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mô tả cụ thể thì công chứng viên đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng.

Như vậy, để có thể tiến hành xác minh, công chứng viên cần phải có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ. Với công nghệ làm giả giấy tờ rất tinh vi như hiện nay, thậm chí công chứng viên không thể tìm được bất cứ đặc điểm gì nghi vấn để làm căn cứ. Điều oái oăm là rất nhiều giấy tờ giả được làm từ… phôi thật, thậm chí con dấu thật của các cơ quan chức năng, trong khi đó nhiều giấy tờ thật được phát hành một cách rất cẩu thả, không khác giấy tờ giả. Có những trường hợp tẩy xóa, sửa số liệu rất lộ liễu, công chứng viên tiến hành xác minh thì nhận được phản hồi khẳng định là giấy tờ thật, những dấu hiệu nghi vấn do sự cẩu thả của cán bộ khi cấp giấy.

Phôi giấy khai sinh bỏ trống, đóng dấu và ký sẵn, lọt ra ngoài

Từ thực tế trên, sự bảo đảm về tính xác thực, hợp pháp ở đây phải được hiểu rằng, công chứng viên sử dụng các giác quan thông thường và bằng các biện pháp nghiệp vụ để đối chiếu, so sánh số liệu với nội dung yêu cầu công chứng, với nội dung văn bản công chứng; so sánh số liệu giữa các loại giấy tờ với nhau và với các quy định của pháp luật, từ đó chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của giao dịch chứ không có nghĩa là công chứng viên đảm bảo chắc chắn 100% rằng giấy tờ mà công dân cung cấp không thể và không phải là giả mạo. Chính vì vậy, Luật Công chứng đã quy định rất rõ tại Điểm b Khoản 2 Điều 7 “Người yêu cầu công chứng cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa, sửa chữa trái pháp luật để yêu cầu công chứng; và  tại Điều 75“Người yêu cầu công chứng có hành vi cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo, sửa chữa, tẩy xóa giấy tờ, văn bản trái pháp luật hoặc có hành vi gian dối khác khi yêu cầu công chứng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Cần phải thấy rằng, sự bảo đảm về tính xác thực, hợp pháp của công chứng viên là có giới hạn chứ không phải là tuyệt đối. Nếu không phải như vậy thì không đặt ra nghĩa vụ và trách nhiệm của người yêu cầu công chứng tại Điều 7 và Điều 75 Luật Công chứng (như đã nêu ở trên).

Thứ ba, về quan điểm cho rằng: Công chứng viên là người được nhà nước ủy nhiệm để cung cấp dịch vụ công, bảo đảm an toàn cho các bên tham gia giao dịch dân sự, do vậy, công chứng viên phải có nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho giao dịch đó:

Điều 3 Luật Công chứng quy định như sau:

“Chức năng xã hội của công chứng viên

Công chứng viên cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế – xã hội.”

Cần phải xác định rõ bản chất, vai trò chính của công chứng viên là người làm chứng chứ không phải là một cơ quan bảo vệ pháp luật. Thông qua việc làm chứng có chuyên môn, bảo đảm tính khách quan, công chứng viên góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao dịch chứ không phải công chứng viên được Nhà nước giao cho nhiệm vụ phải đảm bảo rằng các bên sử dụng dịch vụ công chứng thì mặc nhiên là an toàn.

Công chứng đang bị hiểu lầm từ vai trò làm chứng thành vai trò bảo vệ pháp luật. Từ sự hiểu lầm này mà việc quy trách nhiệm không còn bảo đảm chính xác, khách quan. Không thể nói là công bằng nếu hai bên cố ý gây thiệt hại cho nhau lại đổ lỗi cho người làm chứng và yêu cầu người làm chứng liên đới chịu trách nhiệm.

Việc nhà nước ủy nhiệm cho công chứng viên cung cấp dịch vụ là nhằm mục đích bảo đảm tính khách quan, chất lượng chuyên môn cũng như giúp cho mọi người dân ở mọi tầng lớp xã hội có thể tiếp cận dịch vụ cơ bản, thiết yếu này chứ không phải là trao cho công chứng viên quyền lực để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho bất cứ ai.

Như vậy, cách thức mà công chứng viên bảo vệ an toàn pháp lý của công dân là mang tính gián tiếp, thông qua hoạt động làm chứng, nó chỉ mang tính tương đối chứ không phải là tuyệt đối.

Thứ tư, quan điểm cho rằng công chứng viên được đào tạo bài bản với tiêu chuẩn rất khắt khe để làm công việc của mình, công chứng viên có nghĩa vụ phải biết và phải chịu trách nhiệm về công việc của mình:

Cần phải xem xét kỹ nội dung chương trình đào tạo công chứng viên xem họ được đào tạo như thế nào, gồm những kiến thức gì và để làm những công việc gì.

Trước tiên, công chứng viên được đào tạo để trở thành một người làm chứng chứ không phải là một giám định viên. Vì vậy mà chương trình đào tạo áp dụng cho công chứng viên chủ yếu là kỹ năng làm chứng, kỹ năng thu thập, tạo lập, lưu giữ chứng cứ.

Bảo đảm tính xác thực của giấy tờ và nhân thân người tham gia giao dịch chỉ là một nội dung nhỏ trong chương trình đào tạo. Thời lượng khác dành cho các kỹ năng khác cũng như cách thức vận dụng, áp dụng pháp luật nội dung. Phạm vi kiến thức áp dụng vào công chứng là khá rộng chứ không chỉ tập trung vào kỹ năng nhận diện giấy tờ giả.

Với nội dung nhận diện giấy tờ giả mạo trong chương trình đào tạo, có thể thấy phương pháp đào tạo vẫn là quan sát bằng cảm quan và sử dụng một số công cụ thô sơ, không hề có ứng dụng bất kỳ một công nghệ, thiết bị máy móc nào cả. Thậm chí, có thể nói rằng kiến thức mà công chứng viên được trang bị liên quan đến hoạt động này đã lạc hậu nhiều năm so với hiện tại.

Điều này cũng dễ hiểu, bởi, giữa nghiệp vụ nhận diện sự giả mạo về giấy tờ và nhân thân trong hoạt động công chứng và nghiệp vụ giám định có sự khác biệt rất cơ bản. Nếu như trong hoạt động giám định, giám định viên có mẫu để so sánh thật, giả; có thời gian để xác minh, tìm hiểu thông tin; có thiết bị, máy móc hiện đại để phân tích trước khi kết luận thì công chứng viên hoàn toàn không có những thứ đó. Ngay cả khi phát hiện ra giấy tờ nghi là giả mạo thì công chứng viên cũng không thể kết luận đó là giấy tờ giả, bởi vai trò của họ, địa vị pháp lý của họ không cho phép họ kết luận.

Do vậy, nếu cho rằng công chứng viên được đào tạo bài bản và có yêu cầu khắt khe về chuyên môn nên công chứng viên phải bảo đảm chắc chắn 100% rằng mọi giấy tờ không phải là giả mạo, đồng thời phải chịu trách nhiệm về việc đó thì đó là một quan điểm quy chụp, thiếu khách quan và công bằng.

Sẽ là hợp tình, hợp lý nếu như:

  • Mọi người hiểu rõ, hiểu đúng về vai trò của công chứng viên;
  • Mọi người hiểu rõ giới hạn của sự bảo đảm mà công chứng viên có thể tạo ra nhằm bảo vệ cho mình;
  • Mọi người hiểu rõ về giới hạn trách nhiệm của công chứng viên trước khi đưa ra bất kỳ sự nhận xét nào về họ.

Công chứng viên sẽ phải chịu trách nhiệm về việc để lọt giấy tờ giả khi:

  • Họ không làm đúng quy trình công việc, thiếu khách quan khi tác nghiệp;
  • Khi dấu hiệu giả mạo có thể nhận diện bằng cảm quan thông thường mà họ cẩu thả, không nhận ra; Khi họ có công cụ để hỗ trợ nhưng bỏ qua không sử dụng (cơ sở dữ liệu ngăn chặn);
  • Họ thiếu khách quan khi thực hiện công việc, vi phạm quy tắc đạo đức hành nghề hoặc;
  • Họ thông đồng với kẻ gian gây thiệt hại cho công dân.

Thời gian vừa qua, nhiều vụ tranh chấp có nội dung là giả mạo giấy tờ được đưa ra xét xử cho thấy Tòa án đã công tâm và khách quan khi xem xét trách nhiệm của công chứng viên. Kết luận cuối cùng là khách quan chứ không thiên lệch như ý kiến của một số luật sư, nhà báo đã nêu.

___________________________