Tiro đã phát minh ra một hệ thống tốc ký mà ông gọi là “notae” để ghi chép lại các bài phát biểu của nhà hùng biện nổi tiếng Cicero. Hệ thống tốc ký này là tập hợp các ký tự viết tắt mà sau đó người tốc ký có thể phiên âm lại vào các bản ghi nhớ chính thức.


 

Một số nguồn tài liệu cho thấy những dấu hiệu hoạt động công chứng đã có từ thời kỳ Ai Cập cổ đại (vào khoảng năm 2750-2250 trước Công nguyên), khi đó trong bộ máy công quyền có chức danh Scribes. Scribes được biết đến như một cơ quan truyền thông,có nhiệm vụ ghi chép lại các sự kiện lịch sử, công bố các thông tin chính thức, soạn thảo các thư tín cá nhân, các hồ sơ thuế và nhiều loại tài liệu mang tính chính thức khác. Các dụng cụ để ghi lại sự kiện được tìm thấy trong lăng mộ của vua Pharaoh Tutankhamen cho thấy đây là công việc có tầm quan trọng và được đề cao như thế nào.

Một bảng mã tốc ký thời La Mã – còn được gọi là “notae”

Tuy nhiên, nhiều người cho rằng tổ tiên thực sự của Công chứng viên được sinh ra trong Đế chế La Mã (khoảng năm 535), đó là một nô lệ La Mã có tên là Tiro. Tiro đã phát minh ra một hệ thống tốc ký mà ông gọi là “notae” để ghi chép lại các bài phát biểu của nhà hùng biện nổi tiếng Cicero. Hệ thống tốc ký này là tập hợp các ký tự viết tắt mà sau đó người tốc ký có thể phiên âm lại vào các bản ghi nhớ chính thức. Vì việc học chữ không được phổ biến rộng rãi lúc bấy giờ cho nên các Công chứng viên, còn được gọi là “Notarius” được mời đến để ghi nhận ý kiến, chuẩn bị hợp đồng, di chúc và các tài liệu quan trọng khác có tính phí.

Công chứng du nhập vào Anh trong khoảng Thế kỷ 13 – 14 và phát triển rất mạnh ở Châu Âu. Đến thế kỷ 15, người ta thấy Công chứng viên xuất hiện cùng Columbus trong tất cả các chuyến đi thám hiểm đầu tiên của Tây Ban Nha. Vua Ferdinand và Nữ hoàng Isabella muốn đảm bảo rằng tất cả các kho báu được khám phá đều được ghi chép lại tỷ mỉ, không bị bỏ sót. Vào ngày 12 tháng 10 năm 1492, khi Columbus lần đầu ti

Bức họa miêu tả Rodrigo De Escobedo chứng kiến lễ nhậm chức của Christopher Columbus ngày 12/10/1492 tại “Vùng đất mới”

ên tìm ra Châu Mỹ, một công chứng viên tên là Rodrigo de Escobedo đã có mặt để ghi chép lại cuộc đổ bộ lên đảo San Salvador ở Bahamas.

Có thể thấy rằng ngay từ thời kỳ sơ khai cũng như hàng nghìn năm tồn tại, phát triển thì công chứng đã chứng minh được vai trò quan trọng của mình. Trong suốt quá trình phát triển đó, công chứng luôn mang một số đặc điểm cơ bản sau:

  • Thứ nhất: Hoạt động công chứng bắt nguồn từ nhu cầu của xã hội, bao gồm hoàng tộc, các tầng lớp quan lại, dân cư và cả nhu cầu của Nhà nước trong việc ghi nhận, lưu giữ chính xác các thông tin làm cơ sở để bảo đảm quyền lợi của mình (nhu cầu tạo lập và lưu giữ bằng chứng).
  • Thứ hai: Công chứng viên là người được Nhà nước chỉ định để ghi nhận và lưu giữ các chứng cứ dưới hình thức văn bản. Các chứng cứ được tạo lập bởi Công chứng viên được Nhà nước thừa nhận giá trị và tính xác thực.
  • Thứ ba: Hoạt động công chứng mang tính chất dịch vụ, có phục vụ theo yêu cầu và có trả phí cho công việc đó.

Ngày nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, hoạt động công chứng vẫn mang những đặc điểm này; tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ sẽ có sự trú trọng nhấn mạnh hoặc hạn chế một số đặc điểm nhất định. Phạm vi của hoạt động công chứng, quyền hạn của công chứng viên, giá trị pháp lý của văn bản công chứng vì thế cũng có sự khác biệt. Một số sự khác biệt cơ bản đã tạo nên những mô hình công chứng khác nhau trên thế giới. Hai mô hình công chứng tiêu biểu của thế giới mà ở Việt Nam thường được gọi là công chứng nội dung và công chứng hình thức[1] cũng đều mang đầy đủ 3 đặc điểm nêu trên, riêng mô hình công chứng tập thể[2] (collectiviste) thì đặc điểm thứ 3 là rất mờ nhạt, thậm chí ở một số nước, trong những giai đoạn nhất định thì công chứng không được thừa nhận là một dịch vụ mà nó là một thủ tục mang tính hành chính và được thực hiện bởi cơ quan công quyền.

[1] Công chứng nội dung là mô hình công chứng theo hệ thống pháp luật dân sự (Civi Law), được áp dụng phổ biến ở Pháp và các nước Latin. Công chứng hình thức là mô hình công chứng theo hệ thống Thông luật (Common Law), được áp dụng phổ biến tại các nước Anh, Mỹ và một số nước Châu Âu khác.

[2] Mô hình công chứng tập thể (Collectiviste) là mô hình công chứng được áp dụng phổ biến tại các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Cuba, Đông Âu, Việt Nam … trong giai đoạn thập kỷ 70-80 của Thế kỷ XX.

___________________________